Tôi tức nghẹn, điên cuồng gọi vào số của chồng nhưng anh đã tắt máy. Hôm sau, chồng tôi bình thản trở về như chẳng có chuyện gì. Thấy tôi tức giận, anh còn quát mắng to hơn: “Cô một vừa hai phải thôi, vợ cũ thì cũng là vợ, tôi ngủ với cô ấy cũng chẳng có việc gì.
Cụ già liền kể đầu đuôi câu chuyện, tôi chăm chú lắng nghe và viết lí lẽ rõ ràng. Tôi yên trí và tin tưởng rằng quan trên sẽ xét nỗi oan cho bà cụ. Nào ngờ, khi bà cụ đem đơn đến, quan không đọc được vì chữ viết quá xấu đã thét lính đuổi bà cụ ra khỏi huyện
1001 chuyện đánh cờ của người xưa: Cao Bá Quát ngông chẳng nể vua, Từ Hy Thái Hậu giận giết người Posted on 10/10/2018 in Tin tức , Trong nước Cờ tướng đã có hơn 2.000 năm lịch sử.
slbQYFk.
1. Hay là thày Lý…?Tương truyền viên lý trưởng ở địa phương thường hay tham nhũng, bớt xén quỹ công. Nhân việc làng cho đắp đôi voi ở trước cửa đình, Cao Bá Quát khi đó còn là một chú bé đã viết mấy câu thơ lên lưng voiKhen ai rõ khéo đắp đôi voiĐủ cả đầu đuôi, đủ cả vòiCòn một cái kia sao chẳng thấyHay là thày Lý bớt đi rồi?2. Cá đớp cá, người trói ngườiTương truyền khi Vua Minh Mạng ra tuần du Bắc Hà, Ngài có ra ngoạn cảnh Hồ Tây. Cao Bá Quát lúc đó còn nhỏ đã nhảy xuống hồ tắm mà không chịu lánh xa theo lệnh của binh lính. Bị giải đến trước vua, Cậu bé Quát khai mình là học trò nhà quê ra Hà Nội vừa lúc nóng nực nên xuống hồ tắm. Nhân nhìn thấy con cá lớn đuổi bắt đàn cá bé dưới nước, Vua bèn ra một vế đối, hẹn nếu đối được sẽ tha đánh đòn. Vắp đối của Vua làNước trong leo lẻo, cá đớp cáCậu bé Quát ứng khẩu đối lại rất nhanhTrời nắng chang chang, người trói người3. Bốn bồ chữTương truyền Cao Bá Quát thường nói “ Chữ trong thiên hạ nhất vào 4 bồ; Mình Quát chiếm 2 bồ. Anh của Quát là Bá Đạt và bạn của Quát là Văn Siêu chung nhau 1 bồ. Bồ còn lại chia cho khắp kẻ sĩ”. Kể cũng quá cao ngạo!4. Con thuyền Nghệ AnTùng Thiện Vương Miên Thẩm 1819-1870 và Tuy Lý Vương Miên Trinh 1820-1897, con trai thứ 10 và 11 của Vua Minh Mang là hai nhà thơ tên tuổi. Hai Ông lập ra Mặc Vân Thi xã còn gọi là Tùng Vân thi xã, giao kết với nhiều thi nhân không kể địa vị, tuổi tác. Tương truyền ban đầu đọc thơ của một số vị trong Thi xã này, Cao Bá Quát đã hạ hai câuNgán thay cái mũi vô duyênCâu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ AnAi cũng biết Nghệ An nổi tiếng về nghề nước mắm, con thuyền Nghệ An chở nước mắm nên khá nặng mùi. Tuy vậy Miên Thẩm và Miên Trinh vẫn không chấp nhặt và dần dà mời Cao Bá Quát tham gia vào Thi đời còn truyền tụng hai câu thơ nhiều nhà nghiên cứu cho là của Vua Tự ĐứcVăn như Siêu, Quát vô Tiền HánThi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh ĐườngVăn như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát thì không có thời Tiền Hán/ Thơ được như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương thì mất cả đời Thịnh Đường.5. Chữa câu đối của Vua Tự ĐứcTương truyền Vua Tự Đức sáng tác đôi câu đối sau đâyTử năng thừa phụ nghiệpThần khả báo quân âncon có thể nối nghiệp cha/ Bày tôi có thể báo đáp ơn vua.Ngài rất đắc ý, cho treo ở Điện Cần Chánh. Bá quan đều trầm trồ khen đôi câu đối trên rất súc tích, riêng Cao Bá Quát cho là không chỉnh. Vua Tự Đức giận lắm bèn triệu vào hạch hỏi. Ông tâu rằng viết như vậy là đảo lộn cương thường, đặt con trên cha, đặt bày tôi trên vua; hơn nữa cặp con-cha đứng trước cặp bày tôi-vua lại càng trái ngược. Khi được nhà vua cho phép chữa, Ông vẫn dùng 10 chữ này, chỉ đảo lại trật tự các từ và được Vua Tự Đức chấp nhậnQuân ân, thần khả báoPhụ nghiệp, tử năng thừa6. “Đọc nối” thơ của Nhà VuaTương truyền một hôm, sau khi tan chầu, Vua Tự Đức lưu bá quan lại và đọc hai câu thơ vừa Hán vừa Nôm mà Ngài vừa nghĩ ra đêm trướcViên trung, oanh ngữ khề khàchuyểnDã ngoại đào hoa lấm tấmkhaiTrong vườn, chim oanh hót khề khà/ Ngoài nội, hoa đào nở lắm tấmBá quan đều thán phục vì quả thật hai câu thơ trên của Tự Đức rất độc đáo. Riêng Cao Bá Quát trầm ngâm tâu Vua là dường như hai câu này nằm trong một bài thơ Ông đã đọc được ở đâu đó. Vua Tự Đức rất bực vì chính Ngài đã sáng tác hai câu thơ trên nên nhà Vua bắt Ông phải đọc kỳ được bài thơ nếu không sẽ bị phạt. Sau khi suy nghĩ một hồi với lý do cần nhớ lại vì đọc đã quá lâu, Ông cất giọngBảo mã Tây phươnghuếch hoác laiHuênh hoangnhân tự thác đề hồiViên trung, oanh ngữ khề khàchuyểnDã ngoại đào hoa lấm tấmkhaiXuân nhật bất văn sương lộp bộpThu thiên chỉ kiến vũ bài khờthi tứ đa nhân thứcKhệnh khạngtương lai vấn tú ra Ông đã sáng tác thêm 6 câu thơ nữa, mỗi câu cũng xen 2 chữ thuần Nôm vào như của Nhà vua, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nhà Vua cũng phải tấm tắc khen tài thơ Cao Bá Quát sau khi bắt Ông thú nhận đã “bịa” thêm 6 câu trên chứ chẳng có sách nào chép bài thơ đó ý của 2 câu cuối là “lớm khéo” Nhà vua Khù khờ vì tứ thơ đó nhiều người đã biết, lại còn khệnh khạng mang đi hỏi người tài. Chắc hẳn những cuộc bình thơ của Nhà Vua – Thi sĩ Tự Đức cũng cho phép “vượt khuôn phép” một chút chứ không khắt khe ghép tội “khi quân” như trong những buổi thiết triều chính thống!7. Bị xiềng xích và bị chém đầu ?!Như đã nói ở trên, Cao Bá Quát chết ở trận tiền nhưng do vừa phục vừa sợ Ông nên người đời cứ thêu dệt giai thoại Ông bị bắt, bị tra tấn và đánh đập rồi bị xử chém. Người ta truyền tụng trong ngục tối, Ông đã đọc hai câuMột chiếc cùm lim, chân có đếBa vòng xích sắt, bước thì vương.với ý nghĩa Ông đặt “đế vương” thấp dưới chân mình.Khi ra pháp trường, người ta truyền tụng Ông còn ngâm hai câuBa hồi trống giục, mồ cha kiếpMột nhát gươm đưa, bỏ mẹ là kỳ lạ!Sau này lấy cảm hứng từ những giai thoại trên, nhà văn Nguyễn Tuân đã viết truyện ngắn "Chữ người tử tù" trong tập "Vang bóng một thời" với nhân vật chính là Huấn Cao, người tù chờ ra pháp trường đã tặng chữ cho viên giám Bị "gán" là tác giả đôi câu đối Trung QuốcXưa nay, người đời thường truyền tụng Cao Bá Quát là tác giả đôi câu đốiThập tải luân giao cầu cổ kiếmNhất sinh đê thủ bái mai hoa.Mười năm giao kết tìm gươm cổ/ Một đời chỉ cúi lạy hoa mai. Bút tích đôi câu đối này cũng được cho là thủ bút của Ông vì được viết rất đẹp. Thực ra tác giả là một viên quan Trung Quốc. năm Mậu Thìn 1868, đoàn sứ bộ của ta sang Trung Quốc do Chánh sứ là Hoàng giáp Lê Tuấn, Phó sứ là Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, Phó sứ thứ hai là Cử nhân Hoàng Tịnh Bắc. Tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đã làm ba đôi câu đối tặng cho ba vị Chánh phó sứ của ta. Nguyễn Tư Giản 1823-1890 được tặng đôi câu đối trên. Sự việc này được ghi trong chính sử cũng như tư liệu riêng của Nguyễn Tư Giản và xảy ra sau khi Cao Bá Quát mất tới 13 năm!
Những bài ca dao - tục ngữ về "Cao Bá Quát" Thần Siêu, thánh Quát Thần Siêu, thánh Quát Nguyễn Văn Siêu Thường được gọi là Nguyễn Siêu, nhà thơ, nhà văn hóa Việt Nam thế kỉ 19. Ông cùng với người bạn vong niên Cao Bá Quát được coi là hai danh sĩ tiêu biểu thời bấy giờ. Ngoài tài năng văn chương, thơ phú và các đóng góp về nghiên cứu, Nguyễn Siêu cũng là người đã đứng ra tu sửa đền Ngọc Sơn, bắc cầu Thê Húc, xây Tháp Bút và Đài Nghiên ở Hồ Gươm vào năm 1865. Cao Bá Quát Một nhà thơ nổi danh vào thế kỉ 19, đồng thời là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương sử cũ gọi là giặc Châu Chấu. Ông sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Nổi tiếng văn hay chữ tốt từ nhỏ, nhưng do tính tình cương trực, thẳng thắn, Cao Bá Quát có hoạn lộ rất lận đận. Năm Giáp Dần 1854, ông cùng một số sĩ phu yêu nước nổi dậy tại Mỹ Lương Sơn Tây nhưng mau chóng thất bại và bị giết vào cuối năm 1855. Về tài năng văn chương của ông và người bạn vong niên Nguyễn Siêu, vua Tự Đức có hai câu thơ khen Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường Tạm dịch nghĩa Văn như Siêu, Quát thì thời nhà Hán Trung Quốc cũng không có được. Thơ như Tùng Tùng Thiện Vương, Tuy Tuy Lý Vương thì đời nhà Đường cũng không tới được.
1. Một lần, vua Minh Mạng từ kinh đô Huế ngự giá ra Thăng Long Hà Nội. Vua cho xa giá đến Hồ Tây ngắm cảnh. Xa giá đi đến đâu quân lính cũng thét đuổi tất cả mọi người, không cho ai đến gần. 2. Cao Bá Quát, khi ấy còn là một cậu bé, muốn nhìn rõ mặt vua. Cậu nảy ra một ý, liền cởi hết quần áo, nhảy xuống hồ tắm. Quân lính nhìn thấy, xúm vào bắt trói đứa trẻ táo tợn. Cậu bé không chịu, la hét, vùng vẫy, gây nên cảnh náo động ở hồ. Thấy thế, vua Minh Mạng truyền lệnh dẫn cậu tới hỏi. 3. Câu bé bị dẫn tới trước mặt nhà vua. Cậu từ xưng là học trò mới ở quê ra chơi. Thấy nói là học trò, vua ra lệnh cho cậu phải đối được một vế đối thì mới tha. Nhìn thấy trên mặt nước lúc đó có đàn cá đang đuổi nhau, vua tức cảnh đọc vế đối như sau Nước trong leo lẻo cá đớp cá Chẳng cần nghĩ ngợi lâu la gì, Cao Bá Quát lấy cảnh mình đang bị trói, đối lại luôn Trời nắng chang chang người trói người 4. Vế đối vừa cứng cỏi, vừa rất chỉnh, biểu lộ sự nhanh trí, thông minh. Vua nguôi giận, truyền lệnh cởi trói, tha cho cậu bé. Phạm Hải Đăng Xin câu trả lời hay nhất
câu chuyện về cao bá quát